LH 0983922654/01684589528. Chuyên cung cấp và bán cây hoa mộc, cây mộc cảnh, cây hoa mộc cảnh, cây mộc hương, cây hoa mộc hương, cây mộc tê, cây quế hoa.
Liên hệ: Ông Chuốt - Tư vẫn kĩ thuật trồng và chăm sóc.
Địa chỉ: Đội 8- thôn Phú Trạch - xã Mễ Sở - huyện Văn Giang - tỉnh Hưng Yên
Hoa
mộc hay cây mộc, mộc tê, quế hoa (tên khoa học: Osmanthus fragrans) là
loài thực vật bản địa của châu Á, từ đông Himalaya đến Hoa Nam (Quý
Châu, Tứ Xuyên, Vân Nam), Đài Loan, nam Nhật Bản.
Đặc điểm hình thái:
Hình dánh: Hoa mộc là cây bụi hoặc cây gỗ nhỏ, thường xanh, có thể cao 3–12 m.
Lá cây hoa mộc: Lá dài 7–15 cm và rộng 2,6–5 cm. Hoa màu trắng, vàng nhạt, vàng hoặc vàng cam, dài khoảng 1 cm, mùi thơm mạnh.
Hình
dạng hoa và quả: Hoa của cây hoa mộc ra rải rác quanh năm, nhưng chủ
yếu là mùa thu, hoa mọc thành chùm ở kẽ lá gần ngọn, có màu vàng thơm,
đài có bốn răng, tràng có bốn cánh dày hơi liền nhau tại gốc, có hai nhị
đối nhau, bầu có hai lá noãn cũng dính nhau phía gốc hoa. Quả hạch hình
bầu dục, màu lục, chứa một hạt, nhưng ít khi thấy quả hoa mộc.’
Đặc điểm sinh lý:
Cây
hoa mộc ưa ẩm, hơi chịu bóng, là loại cây thân gỗ nhỏ cao 2 – 3,5 m,
phát triển nhiều cành, cành non dẹp và phồng lên tại các mấu. Lá hoa mộc
nhỏ, có phiến thon, dài 5 – 12cm, rộng 2 – 4cm, dầy không lông, mép có
răng nhọn nhỏ.
Là cây nhỏ, cụm hoa mọc ở kẽ lá gần ngọn
thành chùm ngắn, hoa màu vàng thơm, đài 4 răng, tràng 4 cánh dày hơi
liền nhau ở gốc, nhị 2 đối nhau, bầu có 2 lá noãn dính nhau ở gốc.
Quả
hạch hình bầu dục, màu lục, chứa một hạt. Hoa mộc được trồng chủ yếu ở
các tỉnh phía Bắc để làm cảnh, ưa ẩm, hơi chịu bóng, thường trồng ở
quanh nhà, vườn đình chùa.
Gần đây, ở thành phố, người ta trồng
hoa mộc vào các chậu nhỏ để ở ban công cho tiện việc chăm sóc. Hoa mộc
sinh trưởng mạnh trong mùa mưa ẩm, ra hoa rải rác quanh năm, hoa nhiều
song hiếm khi thấy quả. Hoa mộc là loại cây cảnh quý, hoa còn dùng để
ướp trà.
Công
dụng làm thuốc: Bộ phận dùng làm thuốc là hoa, quả, rễ và vỏ cây. Hoa
mộc được dùng chữa viêm họng, ho nhiều đờm, đau răng, hôi miệng. Ngày
dùng 1,5-3g hãm, ngâm rượu uống hoặc sắc ngậm. Có thể dùng nước cất từ
hoa, mỗi lần 20-30ml, ngậm rồi nuốt, ngày 2-3 lần. Khi bị loét trong
miệng, lấy 3-5 hoa, phơi âm can, tán thành bột mịn rắc vào chỗ loét. Hoa
còn chữa bế kinh, đau bụng, dưỡng tóc và làm thơm tóc.
Quả được
dùng trị đau dạ dày, đau gan, thận do lạnh, ngày dùng 10-12g sắc uống.
Vỏ cây nấu với nước uống làm sáng mắt và tăng sắc đẹp. Rễ được dùng chữa
phong thấp, nhức mỏi gân xương, thận hư, đau răng. Ngày dùng 9-15g rễ
khô hoặc 25-50g rễ tươi, sắc hoặc ngâm rượu uống.
Chữa đau dạ dày:
Quả cây hoa mộc 6g, hương phụ, cao lương khương mỗi vị 9g, sa nhân 6g,
sắc uống ngày 1 thang. Hoặc hoa mộc, cao lương khương mỗi vị 5g, tiểu
hồi 3g, sắc uống ngày 1 thang.
Chữa đau răng: Rễ hoa mộc 9g, cúc hoa, địa cốt bì, mỗi vị 15g, tế tân 3g, sắc lấy nước ngậm rồi nuốt.
Thuốc dưỡng tóc, làm thơm tóc: Hoa mộc nấu với dầu vừng rồi chải lên tóc.
Mộc là cây cảnh quý vì hoa rất thơm, hương thơm ngọt ngào say đắm.Hoa mộc hay cây mộc, mộc tê, quế hoa (tên khoa học: Osmanthus fragrans) là loài thực vật bản địa của châu Á,
Hoa
mộc hay cây mộc, mộc tê, quế hoa (tên khoa học: Osmanthus fragrans) là
loài thực vật bản địa của châu Á, từ đông Himalaya đến Hoa Nam (Quý
Châu, Tứ Xuyên, Vân Nam), Đài Loan, nam Nhật Bản
Hoa mộc nồng nàn hương sữa
Hoa mộc dùng để ướp trà, một số bộ phận khác của cây cũng được dùng làm các vị thuốc trong đông y.
Hoa mộc còn chữa bế kinh, đau bụng, dưỡng tóc và làm thơm tóc.
Cây hoa mộc là loại có dáng đẹp, hoa thơm có mùi hương quyến rũ. Cây hoa mộc được xem là loài hoa thanh lịch nên người ta thường trồng ở các vườn cảnh, trang trí nơi sân vườn, đặc biệt trong các đền chùa danh thắng cũng đều trồng hoa mộc.
Cây
hoa mộc ưa ẩm, hơi chịu bóng, là loại cây thân gỗ nhỏ cao 2 – 3,5 m,
phát triển nhiều cành, cành non dẹp và phồng lên tại các mấu. Lá hoa mộc
nhỏ, có phiến thon, dài 5 – 12cm, rộng 2 – 4cm, dầy không lông, mép có
răng nhọn nhỏ.
Hoa của cây hoa mộc ra rải rác quanh năm, nhưng chủ
yếu là mùa thu, hoa mọc thành chùm ở kẽ lá gần ngọn, có màu vàng thơm,
đài có bốn răng, tràng có bốn cánh dày hơi liền nhau tại gốc, có hai nhị
đối nhau, bầu có hai lá noãn cũng dính nhau phía gốc hoa. Quả hạch hình
bầu dục, màu lục, chứa một hạt, nhưng ít khi thấy quả hoa mộc. Cây hoa mộc chữa đau lưng:
Công
dụng của cây hoa mộc cũng rất nhiều như hoa dùng để ướp trà uống rất
thơm. Là loại cây giàu dược tính nên có thể sử dụng hoa, quả, rễ, vỏ
thân của cây hoa mộc để làm thuốc chữa trị được nhiều bệnh.
Đông y
cho rằng, hoa mộc có vị cay, tính ấm, có tác dụng tán hàn phá kết, hoá
đàm, chữa đau răng, ho nhiều đờm, kinh bế, đau bụng. Còn quả hoa mộc có
vị cay ngọt, tính ấm, có tác dụng tán hàn, bình can, ích thận, chữa đau
dạ dày do hư hàn. Rễ cây hoa mộc thì có vị ngọt, hơi chát, tính bình,
tác dụng khử phong, chỉ thống, chữa phong tê thấp, đau gân cốt, đau
lưng, thận hư, đau răng...
Nhiều tài liệu đông y khác cũng cho
rằng, cây hoa mộc chữa được các bệnh đường hô hấp trên như viêm họng,
ho, các bệnh răng miệng, hôi miệng, chữa bế kinh, đau bụng, làm thuốc
dưỡng tóc, làm thơm tóc (hoa mộc nấu với dầu vừng làm dầu thơm) ...
Quả
cây hoa mộc được dùng làm thuốc trị đau dạ dày, đau gan, thận do lạnh.
Vỏ thân cây hoa mộc nấu lấy nước uống làm sáng mắt, tăng sắc đẹp. Rễ cây
hoa mộc làm thuốc chữa phong thấp, nhức mỏi gân xương, thận hư, đau
răng.
Để tiện sử dụng, sau đây xin giới thiệu một số phương chữa bệnh từ cây hoa mộc để cùng tham khảo và áp dụng.
* Chữa hôi miệng, đau răng. Dùng 2 – 3g hoa mộc sắc hoặc ngâm với rượu, lấy nước thuốc ngậm và súc miệng nhiều lần trong ngày.
*
Chữa viêm họng, ho nhiều đờm. Dùng 2 – 3g hoa mộc đem hãm hay ngâm rượu
hoặc sắc rồi uống hay ngậm và khò họng, ngày dùng 2 – 3 lần.
*
Chữa loét miệng. Lấy 3 – 5 hoa mộc, phơi khô trong râm, tán thành bột
mịn rồi lấy bột này rắc vào nơi miệng loét ngày vài lần sẽ khỏi.
* Chữa đau dạ dày, đau gan, thận do lạnh. Dùng quả mộc 10 – 12g sắc lấy nước thuốc uống trong ngày.
* Làm sáng mắt và tăng sắc đẹp. Lấy vỏ thân cây mộc sắc uống làm sáng mắt, tăng sắc đẹp, mỗi ngày dùng 10 – 12g.
*
Chữa phong thấp, nhức mỏi gân xương, thận hư, đau răng. Dùng rễ mộc
tươi 25 – 50g, hoặc rễ khô 9 – 15g, tất cả sắc hoặc ngâm rượu uống.
*
Chữa đau dạ dày. Lấy quả cây hoa mộc 6g, hương phụ 9g, cao lương khương
5g, tiểu hồi 3g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 2 – 3 lần.
* Chữa đau răng. Rễ hoa mộc 9g, cúc hoa 15g, địa cốt bì 15g, tế tân 3g, sắc lấy nước ngậm và nuốt từ từ.
Hoặc:
Hoa mộc 10g, vỏ cây đại 8g, lá nhãn 10g, lá lốt 8g, rượu trắng 150ml.
Cho các vị thuốc vào rượu đun sôi kỹ, chắt lấy nước dùng bông chấm nước
thuốc này đặt vào chỗ đau. Ngày 2 – 3 lần.
* Làm thuốc dưỡng tóc và thơm tóc. Dùng hoa mộc và dầu vừng nấu với nhau rồi dùng chải lên tóc.
* Chữa ho. Hoa mộc 5g, húng chanh 10g, cam thảo đất 10g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 3 lần. Cần uống liền 3 – 5 ngày.
* Chữa bế kinh, đau bụng.
Hoa mộc 7g, luân kế 10g, ngải cứu 10g, ích mẫu 8g. Sắc lấy nước thuốc uống ngày 1 thang, chia 3 lần. Cần uống liền 3 – 5 ngày.
*
Chữa đau lưng. Rễ mộc 10g, cau trúc 15g, ngũ gia bì 8g, đỗ trọng 12g,
cỏ xước 10g, rễ cây lá lốt 5g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 3 lần, cần
uống liền 5 – 7 thang.
Hoa quế (hoa mộc) chữa nhiệt, hôi miệng TPO - Trước sân nhà tôi có
trồng hai cây hoa quế. Từ cuối mùa hè cây ra rất nhiều hoa, hương hoa
thơm ngát, lan khắp cả nhà rất dễ chịu.
Tôi rất muốn biết, ngoài để làm cảnh, liệu cây quế có thể dùng làm thuốc
chữa bệnh? Nếu được, có thể chữa những bệnh gì?
+
Đáp: Cây quế có hai loại, một cây khai thác vỏ và cành để dùng làm
thuốc, một cây được trồng làm cảnh để thưởng lãm. Cây thứ nhất cho hai
vị thuốc chính: Một là vị thuốc bổ có tên “nhục quế” (vỏ thân), một vị
thuốc giải cảm gọi là “quế chi” (cành quế). “Nhục quế” là một vị thuốc
quý, được xếp trong bộ tứ “sâm nhung quế phụ”, tức 4 vị thuốc quý nhất
thời xưa: nhân sâm, nhung hươu, vỏ quế và phụ tử. ở nước ta có nhiều
loài quế tốt, trong đó quế Thanh Hóa (Cinnamomum loureirii Nees), thường
gọi là “Quế Thanh”, là loại tốt nhất Cây thứ hai, chủ yếu được trồng để
làm cảnh. Thời trước những người khá giả thường trồng cây hòe và cây
quế trước nhà. Theo quan niệm xưa, trồng hòe trước nhà thì con cái đỗ
đạt, làm quan tới chức tam công; còn quế giúp cho gia đình được đoàn
viên, không bị ly tán. “Sân quế” trong câu “Một cây cù mộc một sân quế
hòe”, đoạn cuối Truyện Kiều, chính là cây quế bạn đề cập. Cây này còn
gọi là “mộc tê”, “hoa mộc”, “quế hoa”, “cửu lý hương” (hương thơm bay xa
9 dặm), ... tên khoa học là Osmanthus fragrans (Thumb.) Lour. thuộc họ
Nhài (Oleaceae). Hoa quế là loại cây bụi nhỏ, xanh tốt quanh năm, thường
cao khoảng 2-3m, có thể cao tới 7m. Vỏ cây mỏng, màu xám trắng không
cay, không dùng được làm thuốc như cây quế Thanh Hóa nói trên. Cành non
dẹt và phồng lên ở các mấu. Lá phiến thon, dài 5-12cm, rộng 2-4cm, dày,
không lông, cuống ngắn; mép lá liền hoặc có răng cưa nhỏ, nhiều gân phụ.
Chùm hoa ngắn, mọc ở nách lá; cuống dài 1,7cm, mảnh. Hoa sắc trắng,
vàng hoặc đỏ, rất thơm; Thứ hoa trắng gọi là "ngân quế", hoa vàng gọi là
"kim quế", hoa đỏ gọi là "đan quế". Đài cao 1mm, tràng có ống ngắn. Quả
hạch hình bầu dục, màu xanh lục, chứa một hạt. Mùa hoa quả: tháng 7-10.
Hoa quế (Mộc tê, Hoa mộc) là loại cây cảnh quý. Cây được trồng chủ yếu ở
các tỉnh phía Bắc để làm cảnh, thường trồng ở trước sân nhà, trong các
chậu cảnh, trong các vườn đình, chùa, ... Cây hoa quế sinh trưởng mạnh
trong mùa mưa ẩm; Hoa rải rác quanh năm nhưng tập trung nhiều nhất vào
mùa thu. Cây hoa quế cũng có thể sử dụng làm thuốc. Chủ yếu sử dụng hoa
và rễ. Hoa thu hái mùa thu, dùng tươi hoặc phơi khô. Rễ có thể thu hái
quanh năm, nhưng tốt nhất trong tháng 9-10, đào lấy rễ già, hoặc bóc lấy
vỏ rễ; rửa sạch đất cát, phơi khô, thái nhỏ. Một số nơi còn sử dụng
quả: Hái quả chín, tẩm nước sôi rồi phơi khô. Theo Đông y, hoa quế có vị
cay, tính ấm. Hãm trà uống có tác dụng tán hàn, phá ứ kết, hóa đàm,
sinh tân dịch. Dùng chữa viêm họng, ho nhiều đờm, hen suyễn, đau răng
lợi, hôi miệng; Còn dùng chữa phụ nữ kinh bế gây đau bụng; Dưỡng tóc và
làm thơm tóc. Liều dùng và cách dùng: Ngày dùng 1,5-3g; Hãm uống, ngâm
rượu uống, sắc ngậm, hoặc chế nước cất từ hoa. Quả có vị cay, ngọt, tính
ấm; Có tác dụng tán hàn, bình can, ích thận. Dùng chữa hư hàn, đau dạ
dày, đau gan, thận do lạnh. Ngày dùng 10-12g, sắc uống. Rễ có vị ngọt
hơi chát, tính bình; Có tác dụng khu phong chỉ thống (trừ phong giảm
đau). Dùng chữa phong thấp, nhức mỏi gân xương, thận hư, đau răng. Ngày
dùng 9-15g dược liệu khô hoặc 30-90g tươi, sắc lấy nước hoặc ngâm rượu
uống. Một số bài thuốc có sử dụng hoa quế: - Loét miệng (nhiệt miệng):
Hái hoa quế, phơi âm can (phơi khô trong bóng râm), tán thành bột mịn.
Dùng bột thuốc rắc vào chỗ loét; ngày rắc 2-3 lần. - Đau răng: Dùng rễ
hoa quế 9g, tế tân 3g, địa cốt bì 15g; sắc lấy nước, ngậm rồi nuốt dần..
- Chữa đau dạ dày, đau gan thận do nhiễm lạnh: (1) Dùng hoa quế 6g, cao
lương khương 5g, tiểu hồi 3g; sắc nước uống trong ngày. (2) Hoặc dùng
quả hoa quế 6g, hương phụ 9g, sa nhân 6g, cao lương khương 9g; sắc uống.
- Dưỡng nhan: Thường dùng hoa ướp chè uống, có tác dụng sinh tân dịch,
sáng mắt, đẹp nhan sắc và đen râu tóc. - Dưỡng tóc, thơm tóc: Dùng hoa
mộc nấu với dầu vừng. Đun nhỏ lửa cho hoạt chất từ hoa tan hết vào dầu,
sẽ được dầu bôi tóc tự chế rất tốt. Dùng chải tóc có tác dụng làm thơm
tóc và kích thích tóc mọc.
Hoa mộc hay cây mộc, mộc tê, quế hoa (tên khoa học: Osmanthus
fragrans) là loài thực vật bản địa của châu Á, từ đông Himalaya đến Hoa
Nam (Quý Châu, Tứ Xuyên, Vân Nam), Đài Loan, nam Nhật Bản.
Sinh trưởng:
Hoa mộc nở rộ ở Tĩnh Giang, thuộc tỉnh Giang Tô, Trung Quốc
Hoa
mộc là cây bụi hoặc cây gỗ nhỏ, thường xanh, có thể cao 3–12 m. Lá dài
7–15 cm và rộng 2,6–5 cm. Hoa có thể có các màu bao gồm màu trắng, vàng
nhạt, vàng hoặc vàng cam, dài khoảng 1 cm, mùi thơm mạnh. Ở Việt Nam
thường gặp hoa màu trắng. Quả màu tím đen, dài 10–15 mm, chín vào mùa
xuân, khoảng sáu tháng sau khi hoa nở. Phân bố và sử dụng:
Cây
hoa mộc được trồng làm cảnh tại châu Á, châu Âu, Bắc Mỹ và nhiều nơi
khác trên thế giới, do hoa có mùi thơm giống mùi đào chín hoặc mơ
chín. Trà ướp hoa mộc:
Tại Việt Nam, loài hoa này mọc hoang ở Ninh Bình (Vườn quốc gia Cúc Phương), Kon Tum và được trồng ở nhiều nơi.
Hoa mộc dùng để ướp trà, một số bộ phận khác của cây cũng được dùng làm các vị thuốc trong đông y.
Cây hoa Mộc với từng chùm hoa nhỏ xinh thơm ngào ngạt, đặc biệt giống
mùi quả chín khiến người yêu hoa “ngửi một lần mãi không quên”.
Người xưa có câu: “Sắc Trà hương Mộc” để nói lên vẻ đẹp tuyệt vời
của cây hoa Trà và mùi hương vượt thời gian của cây hoa Mộc.
Hoa Mộc không chỉ thơm còn là loại cổ thụ khai thác được rất nhiều
công dụng: làm thuốc chữa bệnh, trang trí cảnh quan, làm thực phẩm,…
Hoa Mộc có tên khoa học là Osmanthus fragrans, dân gian thường gọi
là cây Mộc, cây Mộc Tê, Cây Quế Hoa với mùi thơm nồng nàn có nguồn gốc từ các
nước châu Á.
Đặc điểm hình thái cây hoa Mộc:
Cây hoa Mộc là cây lâu niên, thân gỗ có thể cao từ 5 – 15 m.
Hình dáng hoa Mộc: hoa mọc thành
chùm, hoa nhỏ gồm 4 cánh dày mọc chung gốc dài khoảng 1 cm, mùi thơm mạnh và
nồng nàn.
Quả cây Mộc có dạng quả hạnh, hình
bầu dục màu tím đen. Trong mỗi quả Mộc chỉ gồm một hạt nhưng quả Mộc cực kỳ
hiếm, quả thường chín vào mùa xuân.
Lá của cây hoa Mộc hơi bầu, dài
khoảng 8 – 14 cm với bề rộng khoảng 3 – 5 cm, có màu xanh sẫm. dầy không lông,
mép có răng nhọn nhỏ.
Điều kiện sinh trưởng và phát triển của cây hoa Mộc:
Cây Mộc có nguồn gốc từ các nước
châu Á nên cực kỳ thích hợp với điều kiện khí hậu của Việt Nam. Cây hoa Mộc ưa
ẩm, hơi chịu bóng, phát triển nhiều cành, cành non dẹp và phồng lên tại các
mấu.
Hoa Mộc sinh trưởng mạnh trong mùa
mưa ẩm, ra hoa rải rác quanh năm đặc biệt nở rộ trước và sau tết Nguyên Đán.
Hoa nhiều song hiếm khi thấy quả.
Công dụng của cây hoa Mộc:
Cây Mộc là một trong những loại thực
vật có thể khai thác từ hoa, thân cây, vỏ cây, lá cây…
-Hoa Mộc:
+ Trà ướp hoa mộc cực kỳ thơm lâu,
một vốc trà hoa Mộc đưa lên ngửi nhẹ lên mũi khiến người phẩm trà thư thái.
Nhấp một ngụm trà ngỡ lạc vào chốn thần tiên bởi mùi hương nồng nàn hòa quyện
cùng hương thanh nhã của trà.
+ Tinh dầu có trong hoa Mộc được ứng
dụng làm nguyên liệu sản xuất nước hoa đặc biệt quý hiếm.
+ Hoa Mộc nấu nước gội đầu hoặc tắm
có tác dụng làm dẹp da, dưỡng da và ướp hương lên thân thể rất thơm mát. Dùng
nước hoa Mộc rửa mặt hàng ngày làm đẹp da phụ nữ và phòng chống một số bệnh
thông thường.
+ Theo các bài thuốc Đông Y, hoa Mộc
có vị cay, tính nóng có tác dụng chữa đau răng, đau bụng kinh và trị cảm lạnh.
-Quả cây Mộc: cũng như hoa Mộc, quả Mộc có vị cay ngọt, tính ấm, có tác
dụng tán hàn, bình can, ích thận, chữa đau dạ dày do hư hàn.
-Rễ cây hoa Mộc: có vị ngọt, hơi chát, tính bình, tác dụng khử phong, chỉ
thống, chữa phong tê thấp, đau gân cốt, đau lưng, thận hư, đau răng
-Lá Mộc: phơi khô là bài thuốc quý phòng trừ các bệnh cảm cúm thông
thường, trị ho…
-Vỏ thân cây hoa Mộc: nấu lấy nước uống làm sáng mắt, tăng sắc đẹp.
Cây hoa Mộc có dáng dẹp, cành lá rậm
rạp, rắn chắc với mùi hương quyến rũ, được xem là loài hoa thanh cao nên rất
được ưa chuộng trong trang trí vườn cảnh, sân vườn, đặc biệt tại các di tích
lớn thường trồng cây hoa Mộc để tạo điểm nhấn không gian, làm chốn dừng những
lúc mệt mỏi.
Một gốc Mộc xưa, vài ba chiếc ghế
gỗ… thêm một ấm trà thoang thoảng mùi hoa Mộc gợi nhớ hình ảnh làng quê Việt
xưa.