Thứ Sáu, 3 tháng 7, 2015
VỊ THUỐC QUÝ CÂY MỘC HƯƠNG
Mộc hương là rễ phơi hay sấy khô của cây Mộc hương, dùng làm thuốc được ghi đầu tiên trong sách Bản kinh. Cây Mộc hương có nhiều
loại, sách Trung dược học ( Trung quốc) nêu 2 loại: Vân mộc hương
Saussurea lappa mọc ở vùng Lệ giang tỉnh Vân nam ( nên có tên Vân mộc
hương) và Xuyên mộc hương Viadiminia souliei (Franch) Ling. Còn loại
trồng ở Ấn độ, Miến điện thì sách thuốc Trung quốc gọi là Quảng mộc
hương. Sách của Đỗ tất Lợi có giới thiệu thêm cây Thổ mộc hương Inula
helenium L. đều thuộc họ Cúc.
Theo Đỗ tất Lợi, hiện ta đã di thực được 2
loại Quảng mộc hương và Thổ mộc hương.
Tính vị qui kinh:
Vị đắng , cay, tính ôn. Qui kinh Tỳ, Vị, Đại tràng, Đởm.
Theo các sách cổ:
Sách Bản kinh: Vị cay, ôn.
Sách Thang dịch bản thảo: Khí nhiệt, vị cay đắng, không độc.
Sách Bản thảo cầu chân: vị cay đắng.
Sách Bản thảo diễn nghĩa bổ di: hành Can kinh.
Sách Lôi công bào chế dược tính giải: nhập tâm, phế, can, tỳ, vị, bàng quang.
Sách Bản thảo cầu chân: nhập Can, Tỳ.
Thành phần chủ yếu:
Vân
mộc hương và Quảng mộc hương có chừng 1 - 2,8% tinh dầu, 6% chất nhựa
Saussurin (Ancaloit) và chừng 18% chất Inulin. Thành phần chủ yếu trong
tinh dầu có: Aplotaxene, Anpha-Ionone, Beta-seline, Saussurea-lactone,
Costunolide, Costic acid, Anpha-costene, Costuslactone, Camphene,
Phellandrene, Dehydrocostuslactone, Stigmasterol, Betulin.
Tác dụng dược lý:
1.Theo Y học cổ truyền:
Mộc
hương có tác dụng điều trung hành khí chỉ thống. Chủ trị các chứng tỳ
vị khí trệ, tả lî do tích trệ, lý cấp hầu trọng, tỳ rối loạn vận hóa,
mất chức năng sơ tiết tỳ vị khí hư.
Trích đoạn Y văn cổ:
Sách Bản kinh: trị tả khí, trừ độc dịch.
Sách Bản thảo diễn nghĩa: Mộc hương chuyên tả lãnh khí tắc trệ giữa vùng ngực bụng.
Sách Trân chân mang: tán trệ khí, điều chư khí, hòa vị khí, tả phế khí.
2.Kết quả nghiên cứu dược lý hiện đại:
Trên
thực nghiệm, Mộc hương cótác dụng chống co thắt cơ ruột trực tiếp làm
giảm nhu động ruột. Thuốc có tác dụng kháng Histamin và acetylcholine,
chống co thắt phế quản, trực tiếp làm giãn cơ trơn của phế quản.
Nồng độ tinh dầu 1:3.000 có tác dụng ức chế liên cầu khuẩn, tụ cầu vàng và trắng sinh trưởng.
Ứng dụng lâm sàng:
1.Trị rối loạn tiêu hóa: bụng đầy đau, sôi bụng ( do trúng hàn khí trệ).
Mộc
hương điều khí tán:Mộc hương, Bạch đậu khấu, Đàn hương, Cam thảo đều
4g, Đinh hương 2g, Hoắc hương diệp 10g, Sa nhân 5g, sắc uống.
2.Trị chứng tả lî bụng đau, lý cấp hậu trọng ( do khí trệ ở đại trường):
Mộc
hương bình lang hoàn: Mộc hương, Ngô thù đều 4g, Bình lang 10g, Thanh
bì, Chỉ xác, Trần bì, Tam lăng đều 6g, Hoàng bá 10g, Nga truật 6g, Đại
hoàng, Hương phụ, Khiên ngưu, Mang tiêu ( hòa uống) đều 10g sắc uống.
Hương liên hoàn: Mộc hương 4g, Hoàng liên 6g, sắc uống. Theo cổ phương
thì Hoàng liên sao với Ngô thù, xong bỏ Ngô thù gia Mộc hương tán bột
mịn hồ hoàn, mỗi lần uống 3 - 6g; trị viêm đại trường, kiết lî. Có thể
dùng theo liều lượng trên sắc còn 100ml thụt lưu trị viêm đại trường mạn
tính có kết quả.
Mã văn Quang dùng dịch Mộc hương 100% chích bắp,
2ml/lần, ngày 2 lần. Trị rối loạn tiêu hóa, viêm ruột cấp, viêm bao tử
mạn 29 ca đạt tỷ lệ kết quả 93% ( Thông tin Trung thảo dược 1979, 3:37).
3.Trị cơn đau thắt túi mật: Hoàng dục Quang dùng thuốc trị 8 ca kết quả đều tốt ( Tạp chí Ngoịa khoa Trung hoa 1958, 1:24).
Liều dùng và chú ý:
Liều uống 3 -10g.
Thận trọng khi dùng đối với bệnh nhân âm hư hỏa vượng.
BAN MAI THẬT TRONG TRẺO TINH KHIẾT !
Một mùi hương thoảng nhẹ rất đỗi dịu dàng, thoảng như có, thoảng như không tràn ngập gian phòng. Dường như hương thơm đã nhẹ nhàng đánh thức mình dậy.
Chà, dễ chịu quá. Ừ mà hương thơm gì nhỉ ? Hương thơm ở đâu quyến rũ thế, ngọt ngào thế?
Chà, dễ chịu quá. Ừ mà hương thơm gì nhỉ ? Hương thơm ở đâu quyến rũ thế, ngọt ngào thế?
Khẽ
vươn vai mở mắt. Tia nắng cuối đông yếu ớt, mong manh vuốt nhẹ lên má
mình. Nằm ườn trong đống chăn len ấm áp mềm mại nghĩ ngợi, mình có còn ở
tuổi đôi mươi nữa đâu mà mơ mộng thế ?.
Một tia nắng vàng nhạt vẫn mơn man trên má mình như muốn nói: ” Hãy dậy đi , dậy đi. Ngoài kia là một ban mai tuyệt vời đang chờ đón bạn!”.
Bàn chân dường như vô thức bước ra sân. Khoảng sân sáng bừng như hồi sinh sau những ngày đông rét mướt lạnh lẽo. Cả vườn cây đâm chồi nẩy lộc. Những chiếc lá non như những vẩy vàng đu đưa nhè nhẹ. Ánh nắng làm những giọt mưa đậu trên những chiếc lá long lanh ánh lên bẩy sắc cầu vồng!
Mấy con chim chích như những nắm bông mầu nâu đang lích rích đùa với nhau. Trên cây bàng già nua cũ kĩ bỗng vút lên lảnh lót tiếng hót chim họa mi!
Góc sân ,cây hoa mộc nở rộ những chùm hoa trắng xinh xinh. Cả khu vườn như đang tỏa hương dịu nhẹ. Hóa ra hương thơm của hoa mộc đã đánh thức mình dậy!
Mùi hương của hoa mộc thanh khiết lắm. Đây là loại hoa thường được trồng ở sân chùa. Mỗi khi lên chùa được ngửi hương hoa mộc, nhấp một ngụm trà nóng thoảng hương hoa mộc của vị sư già trụ trì, thưởng thức hết hương thơm tao nhã, tinh tế của chén trà, cảm thấy như thoát khỏi cõi trần u tạp đến với cõi thần tiên, tâm hồn thấy nhẹ nhõm vô cùng!
Mà loài hoa mộc này cũng lạ, hết sức kiên cường và khiêm nhường. Mặc nắng táp quắt cây, mặc mưa sa thối đất, mặc gió , mặc bão , cứ khi xuân sang là bừng lên nở hoa , từng chùm nho nhỏ trắng nhẹ hanh vàng, nở hết mình như dâng hiến!
Ban mai thật trong trẻo tinh khiết!
Nguyễn Tuyết Thanh
Một tia nắng vàng nhạt vẫn mơn man trên má mình như muốn nói: ” Hãy dậy đi , dậy đi. Ngoài kia là một ban mai tuyệt vời đang chờ đón bạn!”.
Bàn chân dường như vô thức bước ra sân. Khoảng sân sáng bừng như hồi sinh sau những ngày đông rét mướt lạnh lẽo. Cả vườn cây đâm chồi nẩy lộc. Những chiếc lá non như những vẩy vàng đu đưa nhè nhẹ. Ánh nắng làm những giọt mưa đậu trên những chiếc lá long lanh ánh lên bẩy sắc cầu vồng!
Mấy con chim chích như những nắm bông mầu nâu đang lích rích đùa với nhau. Trên cây bàng già nua cũ kĩ bỗng vút lên lảnh lót tiếng hót chim họa mi!
Góc sân ,cây hoa mộc nở rộ những chùm hoa trắng xinh xinh. Cả khu vườn như đang tỏa hương dịu nhẹ. Hóa ra hương thơm của hoa mộc đã đánh thức mình dậy!
Mùi hương của hoa mộc thanh khiết lắm. Đây là loại hoa thường được trồng ở sân chùa. Mỗi khi lên chùa được ngửi hương hoa mộc, nhấp một ngụm trà nóng thoảng hương hoa mộc của vị sư già trụ trì, thưởng thức hết hương thơm tao nhã, tinh tế của chén trà, cảm thấy như thoát khỏi cõi trần u tạp đến với cõi thần tiên, tâm hồn thấy nhẹ nhõm vô cùng!
Mà loài hoa mộc này cũng lạ, hết sức kiên cường và khiêm nhường. Mặc nắng táp quắt cây, mặc mưa sa thối đất, mặc gió , mặc bão , cứ khi xuân sang là bừng lên nở hoa , từng chùm nho nhỏ trắng nhẹ hanh vàng, nở hết mình như dâng hiến!
Ban mai thật trong trẻo tinh khiết!
Nguyễn Tuyết Thanh
TẢN MẠN VỀ CÂY TRONG PHỐ
Quan sát thú chơi hoa cảnh của người
xứ mình, càng ngày trong tôi càng củng cố cái nhận xét cho rằng người xứ
mình có một sự yêu thích khác thường
đối với các giống hoa cảnh xứ lạ, nhất là xứ lạnh. Cố nhiên bạn đọc có
thể phản bác tôi và tôi cũng sẵn lòng tự phản bác mình, rằng thú chơi
phong lan chẳng hạn, chẳng là gắn với loài thực vật xứ nóng, đặc trưng
của rừng nhiệt đới đấy ư? Dẫu vậy, tôi nghĩ, sự yêu thích hoa cảnh ôn
đới vẫn là một nét đặc trưng trong thú chơi hoa cảnh của người xứ mình.
Vì
lẽ gì nhỉ? Phải chăng vì lãnh thổ nước mình nằm ở vùng nhiệt đới nên
các giống thực vật ôn đới khó trồng ở xứ mình; mà cái gì khó thì mặc
nhiên trở thành quý hiếm?
Thú chơi thuỷ tiên và dịp Tết ta hẳn đã có rất lâu rồi. Chuyện thi gọt thuỷ tiên sao cho hoa nở đúng giao thừa, chuyện mơ mộng bên mấy đoá thuỷ tiên…, − đã đi vào thơ văn. Vậy mà đến nay, giống này vẫn cứ luôn luôn là mặt hàng ngoại nhập, không gây giống được trên đất mình.
Chỉ dăm năm gần đây, trà mi các loại mới trở thành mặt hàng “đại trà” giá hạ dễ mua mà cũng tương đối dễ gây trồng, chứ cả một thời gian dài xưa kia, người chơi hoa xứ Bắc mình vẫn xem trà mi là giống rất hiếm quý. Đối với người Tây phương, trà mi (camélia) hình như cũng là loại hoa hữu danh; ta nhớ Dumas-Con (Dumas-fils, 1824-1895) đặt tên tác phẩm theo cái tên mà nữ nhân vật chính trong truyện được mệnh danh: La dame aux Camélias, ta vẫn dịch là Trà Hoa Nữ, tức là “Nàng Hoa Trà” vậy. Nếu ai có dịp đi lên các vùng từ vĩ độ 25o trở lên, ví dụ ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ…, sẽ thấy ở đó các loại trà mi có khi được trồng làm hàng rào, có khi được trồng làm cây vòm để cắt gọt cành là tạo thành những nấm xanh tròn nơi công viên, có khi chúng “tự mọc” gần như cây hoang, chẳng được chăm chút gì đặc biệt mà vẫn nở hoa suốt từ xuân qua hạ sang thu.
Có lần trong một công viên ở Sacramento (nơi đặt thủ phủ bang California, Mỹ), tôi ngạc nhiên nhận ra những cây mộc hương cao đến 4-5 mét nhưng lá và hoa thì vẫn với kích cỡ như lá hoa trên những cây mộc hương (aristoloche) thường được trồng trong các ngôi chùa làng xứ ta mà ta quen xem như loại cây bụi với chiều cao chỉ trên dưới 1 mét, và mùi hương thì hình như nồng hơn, trong trí nhớ của tôi. Vậy là mộc hương cũng có gốc từ xứ lạnh phương Bắc. Dẫu vậy, ở xứ ta nó lại được biết đến dường như kỹ lưỡng hơn. Tôi nhớ những năm 1960-70, thơ Xuân Diệu và Chế Lan Viên hay nhắc đến sắc thái lạ của hương hoa mộc.
Nhắc đến hoa xứ lạ, tôi lại nhớ cả chặng đường từ lúc mình ngẫu nhiên nghe thấy cái tên lạ “hoa sen núi” hay là “đại liên sơn” đến chỗ tìm biết cái tên đã có từ lâu của nó: “magnolia”, “mộc lan”. Chẳng là dạo hè 1998, lúc vào thăm một ngôi vườn cạnh nhà sáng tác Đà Lạt, tôi được chủ vườn chỉ cho những cánh hoa rụng đã gần khô của một giống cây nghe nói khi ấy vừa được tìm thấy trong vùng rừng quanh Đà Lạt mà người ta tạm gọi là “hoa sen núi”, lại thêm một định danh Hán Việt tân tạo hơi lủng củng nữa là “đại liên sơn”, cốt ghi lấy đặc điểm những cánh hoa màu trắng lớn cỡ cánh hoa sen mọc trên cây thân gỗ. Hai năm sau, cũng dịp cuối hè đầu thu, tôi có dịp thấy thứ cây hoa như vậy ở khắp vùng từ bắc đến nam California (Mỹ); bạn bè người Việt cho biết tên nó là magnolia và đã được dịch từ lâu ra chữ Hán là mộc lan, tên cây chữ Việt cũng phiên âm tên chữ Hán này. Nhà một bạn người Việt của chúng tôi ở San Jose nằm trên phố mang tên giống cây này: Magnolia Avenue, tức là “phố Mộc Lan”. Lần ấy, ngay khi trở về Hà Nội, tôi vội viết điều này lên báo, nhắn các chủ vườn Đà Lạt nên trở lại dùng cái tên mộc lan cho giống cây hoa mới phát hiện là có trong vùng rừng ven thành phố nói trên. Điều thú vị là một nhà báo, chị Phạm Tâm Hiếu, đã cho tôi biết rằng thứ cây hoa mà tôi tả trong bài báo in kèm ảnh chụp ấy, ngay ở Hà Nội cũng có. Cây thứ nhất chị trỏ tận nơi cho tôi là cây magnolia trong khuôn viên chùa Kim Liên gần khách sạn Thắng Lợi. Từ mùa ấy, năm nào tôi cũng đến ngắm cây ít ra một lần, nhất là vào đầu hè, hoa nở rộ, những cánh hoa lớn như cánh hoa sen, trắng muốt, hiện diện trên cành cây thân gỗ lá to dày, cũng là nét khác lạ; hoa của loài mộc lan này cũng có hương, một mùi hương chưa quen nên chưa dễ gọi tên. Dần dà tôi tìm thấy thêm những “địa chỉ mộc lan” mới ở Hà Nội: cây mộc lan vươn cao từ trong khuôn viên chùa Lý Quốc Sư, khá nhiều cành lớn đương đeo bầu chiết cây, hẳn để dành biếu tặng những thiền từ phật tự nơi khác. Một lần theo du thuyền Hồ Tây ghé phủ Tây Hồ, chúng tôi cũng gặp một cây mộc lan nhỏ đang trổ hoa được trồng bên tường phủ, chỗ gần bể thiêu hương (cây này ít lâu sau đã được đem tặng nơi khác). Trên đất Hà Nội ít ra cũng có chừng 5-6 cây mộc lan; lớn nhất có lẽ là 2 cây mộc lan trước cửa Câu lạc bộ Ba Đình; cuối hè 2003 tôi còn kịp vào xem hoa vài ngày trước khi cả hai cây được di chuyển đi đâu đó nhường đất cho việc xây dựng. Nhưng cây magnolia có màu lá xanh đậm nhất (trong số những cây này có ở Hà Nội) là cây trong khuôn viên sứ quán Đức mà khách qua đường Điện Biên-Trần Phú nhìn vào có thể nhận ra, nhất là vào mùa cây trổ hoa, dịp cuối xuân đầu hạ.[1]
Cũng một chuyện hoa có gốc gác xứ lạnh là chuyện mùa đông vừa rồi Đại sứ quán Nhật Bản tặng cây giống hoa anh đào cho Hà Nội. Nhìn gần những cây anh đào cao chừng nửa mét được trồng chính giữa bồn cây rộng kiêm giải phân cách giữa hai chiều đường Liễu Giai, tôi có cảm tưởng đã gặp loại cây này đâu đó trên đất Việt; có lẽ là Đà Lạt. Ở độ cao trên 1200 mét so với mực nước biển, giống cây này có vẻ phát triển tốt. Đến Đà Lạt vào mùa hè, không được thấy cây này nở hoa, ta chỉ thấy cây lá mỡ màng xanh tốt, cây cao chừng 5-6 mét, có cây đường kính thân lớn chừng vài ba chục phân, với lớp vỏ sần sùi đặc trưng cho các giống đào mận. Mấy bạn sống ở đây cho biết có năm thuận, hoa nở từng chùm lớn rất đẹp, đầu hè lại được một lứa quả, loại quả nhỏ cỡ đầu ngón tay, cuống dài, người ta đã thử ngâm rượu; thứ rượu có vị gần với rượu ngâm đào, mận, mơ ấy, tôi đã được nếm. Chưa biết giống đào ấy có chính cống là anh đào sakura không, nhưng nghe người ta nói thì đó cũng là giống từ Nhật Bản, được đưa đến trồng ở đây từ hồi những năm 1960 (gần đây báo chí gọi loại này là mai anh đào, cũng không cho thấy gì rõ ràng hơn). Dưới các góc vườn trong thành phố Đà Lạt nhìn kỹ có thể thấy những cây con nảy từ hạt quả “mai anh đào” rụng mùa trước; những cây con nom rất khó phân biệt với các cây mận cây mơ nảy từ hạt ở các vườn nhà ngoài Bắc. Có lẽ trồng cây từ hạt sẽ chậm có cây trưởng thành nên hầu hết các cây mai anh đào nhỏ đang được trồng quanh hồ Xuân Hương ở thành phố Đà Lạt hiện giờ có vẻ đều là cành chiết từ cây lớn. Ở thành phố trên cao nguyên này có lẽ sẽ không xa lắm để trở thành hiện thực cái hy vọng một ngày kia việc đến đây ngắm mai anh đào nở sẽ trở thành nội dung các tour du lịch. Còn ở Hà Nội, đợi chờ anh đào nở trên đường Liễu Giai có vẻ còn khá xa vời. Một nhà ngoại giao người Nhật nhận xét với báo chí rằng khí hậu Hà Nội khá khắc nghiệt đối với loài cây này (hẳn ông muốn nói tới trên sáu tháng nóng bức mà loài cây này di thực đến đây sẽ phải chịu đựng, thích nghi), nhưng ông và cả chúng ta nữa, đều mong những cây anh đào này sẽ sống sẽ lớn sẽ trổ hoa trên đất cũ Thăng Long.
Tiện thể tôi có nhận xét rằng các viên chức ngoại giao Nhật dường như khá chú ý đến chủng loại cây cối quanh khu họ ở. Dãy anh đào vừa nói trên nhìn thẳng vào cổng phía tây toà sứ quán; dọc phía đông khuôn viên toà sứ quán, bên trong tường rào được trồng các dãy cây ngọc lan, bên ngoài tường, dọc vỉa hè các phố Liễu Giai, Vạn Phúc được trồng khá nhiều cây hoàng lan; phía hè đường Vạn Phúc bên kia sứ quán, tình cờ chăng, có một gốc phượng vĩ hoa tím có lẽ là độc nhất ở Hà Nội, cùng một thứ phượng tím mà Nguyễn Quang Sáng đã đưa vào phim truyện, thứ phượng tím mà việc nhân giống thành công để trồng thành từng dãy trên phố Đà Lạt được báo chí đưa tin như một sự kiện văn hoá.
Chợt nhớ chuyện cuối thu năm nọ một thành phố nào đó dọc miền Trung phải cho chặt bớt các cây hoa sữa ở những đoạn mật đọ cây quá dày, mùi hoa nồng khiến người trong vùng không chịu nổi, tôi lại phải bừng tỉnh để xin nhắn các bạn Đà Lạt chớ có trồng phượng tím với mật độ quá dày quá thuần chủng trong một không gian hẹp. Vì sao ư? chả là vài bạn người Việt ở quanh vùng Los Angeles kể rằng ở một số đoạn đường trồng dày phượng tím, mùa hoa nở nhiều thì mùi hoa cũng gây phản cảm nặng cho khứu giác con người.
Tôi đang lan man về điều tôi cho rằng người xứ mình thích hoa cảnh xứ lạ. Sự ưa thích thiên lệch ấy có thể có lúc phải trả giá. Có một chuyện đã xảy ra với một người kinh doanh hoa cảnh cách nay vài ba năm, chừng như là vào đầu năm 2001, năm được coi là đích thực mở đầu thiên niên kỷ mới, thiên niên kỷ thứ ba tính theo lịch của đạo Thiên Chúa; anh bạn trẻ thuộc loại “lãng mạn hoa kiểng” ấy dám mua từ Vân Nam về Hà Nội dăm gốc mẫu đơn tiên. Người Trung Quốc coi loài này là chúa của các loài hoa. Nhiều thế hệ hoạ sĩ Tàu từng thả ngọn bút vẽ mê đắm của họ theo vẻ đẹp trùng phức rực rỡ của giống hoa này. Thưở nhỏ, xem những phiên bản tranh Tàu, tôi cứ nghĩ đấy là họ vẽ theo hoa thược dược (một loại cây thân rau dễ trồng) rồi mơ mộng phóng đại tầm mức các tầng cánh của bông hoa đó lên. Những năm 1980, một lần trong phòng khách một khách sạn dưới chân núi Alatau (Kazakhstan) có đỉnh tuyết phủ giữa mùa hè, tôi lần đầu tiên trong đời nhìn thấy một cành thân gỗ với một bông hoa lớn có lẽ của loài hoa ấy mà người ta cho tôi biết dưới cái tên tiếng Nga là “pion”. Mãi đến gần giao thừa hai thiên niên kỷ, được ngắm cây thật nụ thật hoa thật, tôi mới tin cái đối tượng mô tả của các hoạ sĩ Trung Hoa kia là loài có thật. Đây cố nhiên không phải thứ mẫu đơn vốn có ở xứ ta, loại mọc hoang được gọi là bông trang ( thơ Ý Nhi: …bông trang dại vào mùa chín đỏ…), loại trồng vườn gọi là mẫu đơn với hai màu thường gặp là đỏ hoặc trắng, gần đây người ta gây được (hoặc nhập về) giống mới hoa lớn đỏ thắm hơn lá xanh đậm hơn. Đây là một loài mẫu đơn khác, tiếng Anh gọi là peony, tiếng Pháp gọi là pivoine; thân gỗ, lá chia ba thuỳ gần giống lá thược dược, nụ hoa lúc sắp nở cũng hơi giống nụ thược dược, cánh hoa nở ra cũng tương tự cánh hoa thược dược nhưng không khuôn phép như loài hoa nở ra trên cây thân rau nọ. Tôi ngờ rằng cành mẫu đơn trong truyền thuyết mà chàng Từ Thức đền giúp nàng tiên giả dạng người trần đi hội chùa Tiên Du vô tình làm gãy, − là mượn uy danh “chúa hoa” của loài cây lạ kia chứ không phải hoa mẫu đơn thường gặp nơi các chùa hoặc vườn nhà xứ mình. Đó, xin nhắc lại, là hoa của một loài cây xứ lạnh, không chịu nổi môi trường từ vài chục độ trở lên. Sau Tết năm ấy tôi mới biết anh bạn nọ bị lỗ vốn khá lớn vì mấy gốc mẫu đơn tiên nọ; chúng nở rất mau tàn cũng rất mau, không kịp bán cho dù là những người chơi hoa hào phóng nhất; cây hoa cũng không sống được không gây trồng được ở đất này, tương tự giống thuỷ tiên vậy. Đành an ủi người bạn trẻ : vụ lỗ lã này âu cũng nên xem như một trả giá, một kỳ tích về …tình yêu hoa lạ!
***
Bây giờ xin trở lại nói chuyện cây lá quen thuộc xứ mình.
Chẳng rõ việc trồng cây ở đô thị đã trở thành việc làm có quản lý, ít nhiều có quy hoạch, là từ khi nào? Phải chăng là từ thời có các toà Đốc lý, tức chính quyền quản lý đô thị thuộc địa của người Pháp? Chẳng rõ những thứ cây đã thân thuộc với phố xá như phượng vĩ, khuynh diệp, sao đen…có phải là những giống nội địa? Hay chúng , giống như cau châu Phi, bao báp châu Phi…đã được địa vực hoá (localisation) vào xứ ta, với bàn tay của các nhà canh nông thực dân? Cây cối vốn dĩ vô tổ quốc, ở đâu thích nghi được là chúng tồn tại, tự biến đổi ít nhiều mà tồn tại. Cây bách tán hẳn không phải cây xứ nóng, nhưng giới kinh doanh hoa kiểng ở ta bảo rằng loại bách tán do các chủ vườn Nam Bộ trồng ươm bán ra mới là loại bách tán to đẹp.
Cho đến bây giờ, chẳng rõ giới quản lý đô thị đã hoàn toàn chủ động trong chuyện cây trồng trên phố? Kinh nghiệm cho thấy việc chọn cây trồng trên vỉa hè các loại đường, − không phải là việc dễ dàng để có thể tuỳ tiện. Cây dễ trồng, mau lớn, tán lá rậm, tưởng thích hợp với phố xá nhiều nắng nóng, nhưng xà cừ lại là đáp án gây thất vọng. Các loại đa và si thường đòi không gian lớn, − khoảng đất rộng để cắm và lan các loại rễ, không gian tầm thấp để buông cành phụ rễ chùm, không gian tầm cao để toả rộng cành lá, − cho nên không dễ để bị sắp đặt vào bất cứ đoạn vỉa hè nào. Thế mà cây trên phố, cây trong khuôn viên các dinh thự lớn lại phải là cây có thể tồn tại lâu dài, dáng vóc dễ coi. Những giống cây có thể trở thành cổ thụ như thế, đối với đô thị miền bắc như Hà Nội chẳng hạn, chỉ có thể kể đến sấu, muỗm, long não…Chẳng biết có phải vì bí vì thiếu hiểu biết hay vì liều, mươi năm gần đây người ta cho trồng trên nhiều hè đường đô thị hoá gấp gáp những giống cây vốn chỉ đáp ứng yêu cầu phủ xanh đất trống đồi trọc, loại như keo tai tượng, keo lá chàm…, chỉ sau dăm ba năm cây đã già, đáng chặt đi để trồng mới rồi.
Trong chuyện thay cây trồng trên phố Hà Nội, có ai đó từng kể cho tôi một sự việc… ngoạn mục. Chả là đoạn đường Hùng Vương từ cuối những năm 1970 được nhất loạt trồng mới loại chò nâu lấy giống từ núi Nghĩa Lĩnh, Phú Thọ. Sau dăm bảy năm, không ít cây khô chết, người ta đồ chừng loại cây ấy không thích hợp với đất này. Những tìm kiếm lặng lẽ được tiến hành. Rồi một loại cây mới cũng lặng lẽ được đưa trồng thay những cây chò nâu khô chết. Ấy là một loại cây quen thuộc ở đất Nam Bộ: cây dầu nước. Điều ngoạn mục là cây dầu nước thoạt nhìn không khác gì cây chò nâu, chỉ nhìn kỹ mới thấy vòm lá xanh hơn và rậm hơn lại toả rộng hơn tuy ít vươn cao so với chò nâu; thử cầm hai chiếc lá chò nâu và dầu nước mà so đọ thì nếu không là chuyên gia chắc không thể nhận ra sự khác biệt. Đến bây giờ, chừng như cây dầu nước đang có mặt kề cận chò nâu ngay dưới chân núi Nghĩa Lĩnh rồi!
Cùng trên đề tài chọn cây trồng trên hè phố, dọc các quốc lộ, tỉnh lộ…, tôi nhớ một lần được nghe một lý thuyết gọi là “bản địa hoá” cây trồng, theo đó, thay vì chọn trồng các giống cây từ xứ lạ theo kiểu “quốc tế hoá”, người ta khuyên nên chọn nhân giống và trồng ở vùng mình những loài cây từng có lâu đời tại mỗi địa phương. Chẳng biết thuyết này đúng tới đâu, nhưng nó xui tôi nhớ đến những loài chắc hẳn là vốn có từ lâu ở xứ mình. Cây ruối thuộc giống ruối đã có thể trở thành cổ thụ như ở Đường Lâm, Sơn Tây, không hiếm gì trong vùng Hà Nội; có ai tính trồng ruối làm cây trên hè đường? Cây thị với khả năng gợi liên tưởng tới tích Tấm Cám, liệu có thể cho nó đứng trên hè phố như từng đứng trong vườn trong làng? Cây hoa gạo hẳn là rất thích hợp để trồng ven các quốc lộ, tỉnh lộ, trồng cả cho những hè đường trên các phố rộng nữa, nhưng mấy chục năm nay, các sở nông lâm chưa bao giờ nhân giống cấp giống cây này. Tiết cuối xuân đi ra ngoại ô, thấy hoa gạo ngày một thưa vắng, ta bỗng vừa nhớ vừa lo. Lại chợt nhận ra rằng cây gạo bên Hồ Gươm có mặt trong những tấm bưu ảnh chụp từ cuối thế kỷ XIX nay vẫn còn đó nhưng già cỗi lắm rồi, thế mà quanh hồ chưa thấy có cây gạo nào khác được trồng thêm; nỗi lo đâu phải vô cớ? Có một lần ở một tiệm trà trên phố Bolsa (trong quận Cam, bang California, Mỹ), gặp một sư thầy người Việt vừa từ Paris qua Mỹ; vị tu hành trẻ này hỏi tôi: hoa gạo là hoa thế nào, cách trồng nó ra sao, có thể gởi hạt sang đây để trồng trên đất Cali này chăng? Chẳng ai dám bảo cây gạo hoa gạo (chữ Pháp kapokier, chữ Hán mộc miên) là của riêng đất mình, nhưng những gợi nhớ về các cuộc hành hương bất chợt gặp hoa gạo giữa đường, bóng cây hoa gạo cao cao đầu làng thấp thoáng trong các hồi ức quê hương…; thế thì việc người gốc Việt ở ngoài nước chọn hoa gạo để tạo một dấu hiệu quê hương cho vơi nỗi sầu xứ giữa nơi đất khách quê người, sự lựa chọn ấy hẳn không phải là vô lý.
Năm trước có một vài nhà báo nêu một việc mà các anh gọi là nạn “tàn sát lộc vừng”. Sự việc được các anh nêu từ thực tế miền Trung, nhưng ngay giữa Hà Nội ta cũng có thể thấy dấu hiệu của sự triệt phá và thu gom giống cây này, khi mà hằng ngày các chợ cây cảnh các xe đạp thồ bán tràn ngập các cỡ cây lộc vừng từ lớn tới nhỏ, khi mà các loại nhà hàng ăn uống ở khắp nơi trên đất Bắc hễ có khuôn viên rộng là trở thành nơi trưng ra chen chúc những “cổ thụ lộc vừng” với những thân gốc lớn khác thường, với hẩu hết các cành lớn bị cắt xén, cành nhỏ bị gọt tỉa…nếu có đẹp cũng là một cái đẹp tội nghiệp…Lộc vừng là giống chỉ có trong tự nhiên, chưa có sở nông lâm nào nhân giống cấp giống cây này; tất cả những cây lộc vừng hiện trở thành hàng hoá kia đều là bị khai thác từ mọi sườn đồi bờ suối các miền. Chiều theo thị hiếu thị dân, hầu hết các cây lộc vừng khai thác được đều bị ép xác lại thành “bonsai”, thu gọn vào chậu cảnh. Trong khi ấy các công viên có hồ ở Hà Nội chẳng hạn, lại rất hiếm chỗ có cây lộc vừng! Người ta thi nhau chụp ảnh, làm thơ về gốc lộc vừng cổ thụ bên Hồ Gươm, Cái gốc lộc vừng ba thân chĩa ra Hồ Gươm, sau khi Nguyễn Tuân mô tả mùa hoa “xuân thu nhị kỳ” của nó, phát hiện nó cho công chúng văn học trong một bài bút ký thời chiến; từ đó tới nay có biết bao người chụp ảnh làm thơ “ăn theo” nhà tuỳ bút họ Nguyễn, có điều họ đều quên nói với mọi người cái thực tế rằng đấy hầu như là cây lộc vừng độc nhất ở các công viên Hà Nội, rằng cây đó đã quá già. Trong khi lộc vừng ngày càng đầy chật trong mỗi tư gia thì ở các công viên dọc các đường phố vẫn khó thấy bóng lộc vừng. Đây là thứ cây của bờ suối đất phèn, cây của những bờ ruộng ngập nước đồng chiêm miền Bắc.
… “Con bói cá đậu cành lộc vừng rình con tép mại” − trong trí tôi thoảng nhớ câu thơ ai đó viết về đồng chiêm miền Bắc.
Có lần bạn tôi khoe chậu cây lớn lộc vừng vừa mua được, tôi nửa đùa nửa thật bảo: Nếu tôi có quyền, tôi sẽ cho thu mua tất cả các cây “bonsai” lộc vừng trong thành phố, giải phóng chúng khỏi khung chậu chật chội, đem trồng ven các hồ trong thành phố; dăm năm nữa, Hà Nội sẽ có thêm nhiều điểm công cộng ngắm hoa lộc vừng!
Được tiếng là thành phố nhiều cây xanh, nhưng ở Hà Nội hiện có quá ít chỗ công cộng được thiết kế dành cho người ta đến ngắm cây ngắm hoa, quá ít loài cây loài hoa được dành để ngắm nhìn nơi công cộng. Hình như chưa có công viên nào ở Hà Nội dám làm cái việc không đến nỗi khó là trồng thành một vùng chừng vài chục cây đào theo lối tự nhiên, nghĩa là không xén tỉa, tạo thành rừng nhỏ, để mùa hoa sẽ thành nơi cho du khách thưởng lãm, chụp ảnh. Trí tưởng tượng của các kỹ sư làm việc ở các công ty công viên có vấn đề chăng, hay có điều gì khác? Khuôn viên Bảo tàng Mỹ thuật từng có dăm bảy cây đào cổ thụ như thế, nhưng nay thì đã bị chặt bỏ hết rồi. Phong lan các loại, hoặc lấy từ rừng hoặc sản xuất từ các trang trại thì luôn luôn có bán đầy các chợ, nhưng người ta thường chỉ mua về bày ở nhà riêng phòng riêng, rất hiếm công viên công thự có trồng phong lan, dù có cây lớn, dư chỗ cho các loài phong lan rừng đeo bám. Trường hợp mấy chùm phi điệp tím nhạt mỗi mùa vẫn từ mấy cành gội cao buông xuống, như ở vườn Thư viện Quốc gia, có lẽ là chuyện ngẫu nhiên.
Ở xứ ta, đô thị đang tăng dần tỉ trọng về diện tích, về dân số. Không gian đô thị không phải là không gian làng xã; thiên nhiên, cây cối, tức là phần không gian tự nhiên, sẽ bị thu hẹp đáng kể trong không gian đô thị. Phải tổ chức ra sao cái không gian bị thu hẹp ấy để con người sinh ra và lớn lên trong các đô thị vẫn còn được giao tiếp, được thụ hưởng cái thiên nhiên tự nhiên dù đã bị thu hẹp kia? Điều mà các chuyên gia xây dựng và quản lý đô thị quan tâm theo cách của họ, suy cho cùng, cũng là mối bận tâm của người viết những dòng tản mạn này, cố nhiên, theo cách của mình.
Thú chơi thuỷ tiên và dịp Tết ta hẳn đã có rất lâu rồi. Chuyện thi gọt thuỷ tiên sao cho hoa nở đúng giao thừa, chuyện mơ mộng bên mấy đoá thuỷ tiên…, − đã đi vào thơ văn. Vậy mà đến nay, giống này vẫn cứ luôn luôn là mặt hàng ngoại nhập, không gây giống được trên đất mình.
Chỉ dăm năm gần đây, trà mi các loại mới trở thành mặt hàng “đại trà” giá hạ dễ mua mà cũng tương đối dễ gây trồng, chứ cả một thời gian dài xưa kia, người chơi hoa xứ Bắc mình vẫn xem trà mi là giống rất hiếm quý. Đối với người Tây phương, trà mi (camélia) hình như cũng là loại hoa hữu danh; ta nhớ Dumas-Con (Dumas-fils, 1824-1895) đặt tên tác phẩm theo cái tên mà nữ nhân vật chính trong truyện được mệnh danh: La dame aux Camélias, ta vẫn dịch là Trà Hoa Nữ, tức là “Nàng Hoa Trà” vậy. Nếu ai có dịp đi lên các vùng từ vĩ độ 25o trở lên, ví dụ ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ…, sẽ thấy ở đó các loại trà mi có khi được trồng làm hàng rào, có khi được trồng làm cây vòm để cắt gọt cành là tạo thành những nấm xanh tròn nơi công viên, có khi chúng “tự mọc” gần như cây hoang, chẳng được chăm chút gì đặc biệt mà vẫn nở hoa suốt từ xuân qua hạ sang thu.
Có lần trong một công viên ở Sacramento (nơi đặt thủ phủ bang California, Mỹ), tôi ngạc nhiên nhận ra những cây mộc hương cao đến 4-5 mét nhưng lá và hoa thì vẫn với kích cỡ như lá hoa trên những cây mộc hương (aristoloche) thường được trồng trong các ngôi chùa làng xứ ta mà ta quen xem như loại cây bụi với chiều cao chỉ trên dưới 1 mét, và mùi hương thì hình như nồng hơn, trong trí nhớ của tôi. Vậy là mộc hương cũng có gốc từ xứ lạnh phương Bắc. Dẫu vậy, ở xứ ta nó lại được biết đến dường như kỹ lưỡng hơn. Tôi nhớ những năm 1960-70, thơ Xuân Diệu và Chế Lan Viên hay nhắc đến sắc thái lạ của hương hoa mộc.
Mùi hương đạm ấy sao nồng
Ngỡ khuất sau làn ngõ biếc
Trong hồn thơm mãi vào trong
“Đạm”
(chứ không phải “đậm”) ngược với “nồng” (“nồng”= đậm đặc); nhưng ngược
với “nồng” mà lại không hàm cái ý “loãng”, “nhạt”; “đạm” gần với
“thanh”, nó như trạng thái tự đủ trong cái thưa thoáng của mình. Qua
hương hoa mộc, Xuân Diệu và Chế Lan Viên dường như muốn phát hiện cho
mình nét gì đó thú vị nơi những tâm hồn nương mình chốn cửa Phật.Nhắc đến hoa xứ lạ, tôi lại nhớ cả chặng đường từ lúc mình ngẫu nhiên nghe thấy cái tên lạ “hoa sen núi” hay là “đại liên sơn” đến chỗ tìm biết cái tên đã có từ lâu của nó: “magnolia”, “mộc lan”. Chẳng là dạo hè 1998, lúc vào thăm một ngôi vườn cạnh nhà sáng tác Đà Lạt, tôi được chủ vườn chỉ cho những cánh hoa rụng đã gần khô của một giống cây nghe nói khi ấy vừa được tìm thấy trong vùng rừng quanh Đà Lạt mà người ta tạm gọi là “hoa sen núi”, lại thêm một định danh Hán Việt tân tạo hơi lủng củng nữa là “đại liên sơn”, cốt ghi lấy đặc điểm những cánh hoa màu trắng lớn cỡ cánh hoa sen mọc trên cây thân gỗ. Hai năm sau, cũng dịp cuối hè đầu thu, tôi có dịp thấy thứ cây hoa như vậy ở khắp vùng từ bắc đến nam California (Mỹ); bạn bè người Việt cho biết tên nó là magnolia và đã được dịch từ lâu ra chữ Hán là mộc lan, tên cây chữ Việt cũng phiên âm tên chữ Hán này. Nhà một bạn người Việt của chúng tôi ở San Jose nằm trên phố mang tên giống cây này: Magnolia Avenue, tức là “phố Mộc Lan”. Lần ấy, ngay khi trở về Hà Nội, tôi vội viết điều này lên báo, nhắn các chủ vườn Đà Lạt nên trở lại dùng cái tên mộc lan cho giống cây hoa mới phát hiện là có trong vùng rừng ven thành phố nói trên. Điều thú vị là một nhà báo, chị Phạm Tâm Hiếu, đã cho tôi biết rằng thứ cây hoa mà tôi tả trong bài báo in kèm ảnh chụp ấy, ngay ở Hà Nội cũng có. Cây thứ nhất chị trỏ tận nơi cho tôi là cây magnolia trong khuôn viên chùa Kim Liên gần khách sạn Thắng Lợi. Từ mùa ấy, năm nào tôi cũng đến ngắm cây ít ra một lần, nhất là vào đầu hè, hoa nở rộ, những cánh hoa lớn như cánh hoa sen, trắng muốt, hiện diện trên cành cây thân gỗ lá to dày, cũng là nét khác lạ; hoa của loài mộc lan này cũng có hương, một mùi hương chưa quen nên chưa dễ gọi tên. Dần dà tôi tìm thấy thêm những “địa chỉ mộc lan” mới ở Hà Nội: cây mộc lan vươn cao từ trong khuôn viên chùa Lý Quốc Sư, khá nhiều cành lớn đương đeo bầu chiết cây, hẳn để dành biếu tặng những thiền từ phật tự nơi khác. Một lần theo du thuyền Hồ Tây ghé phủ Tây Hồ, chúng tôi cũng gặp một cây mộc lan nhỏ đang trổ hoa được trồng bên tường phủ, chỗ gần bể thiêu hương (cây này ít lâu sau đã được đem tặng nơi khác). Trên đất Hà Nội ít ra cũng có chừng 5-6 cây mộc lan; lớn nhất có lẽ là 2 cây mộc lan trước cửa Câu lạc bộ Ba Đình; cuối hè 2003 tôi còn kịp vào xem hoa vài ngày trước khi cả hai cây được di chuyển đi đâu đó nhường đất cho việc xây dựng. Nhưng cây magnolia có màu lá xanh đậm nhất (trong số những cây này có ở Hà Nội) là cây trong khuôn viên sứ quán Đức mà khách qua đường Điện Biên-Trần Phú nhìn vào có thể nhận ra, nhất là vào mùa cây trổ hoa, dịp cuối xuân đầu hạ.[1]
Cũng một chuyện hoa có gốc gác xứ lạnh là chuyện mùa đông vừa rồi Đại sứ quán Nhật Bản tặng cây giống hoa anh đào cho Hà Nội. Nhìn gần những cây anh đào cao chừng nửa mét được trồng chính giữa bồn cây rộng kiêm giải phân cách giữa hai chiều đường Liễu Giai, tôi có cảm tưởng đã gặp loại cây này đâu đó trên đất Việt; có lẽ là Đà Lạt. Ở độ cao trên 1200 mét so với mực nước biển, giống cây này có vẻ phát triển tốt. Đến Đà Lạt vào mùa hè, không được thấy cây này nở hoa, ta chỉ thấy cây lá mỡ màng xanh tốt, cây cao chừng 5-6 mét, có cây đường kính thân lớn chừng vài ba chục phân, với lớp vỏ sần sùi đặc trưng cho các giống đào mận. Mấy bạn sống ở đây cho biết có năm thuận, hoa nở từng chùm lớn rất đẹp, đầu hè lại được một lứa quả, loại quả nhỏ cỡ đầu ngón tay, cuống dài, người ta đã thử ngâm rượu; thứ rượu có vị gần với rượu ngâm đào, mận, mơ ấy, tôi đã được nếm. Chưa biết giống đào ấy có chính cống là anh đào sakura không, nhưng nghe người ta nói thì đó cũng là giống từ Nhật Bản, được đưa đến trồng ở đây từ hồi những năm 1960 (gần đây báo chí gọi loại này là mai anh đào, cũng không cho thấy gì rõ ràng hơn). Dưới các góc vườn trong thành phố Đà Lạt nhìn kỹ có thể thấy những cây con nảy từ hạt quả “mai anh đào” rụng mùa trước; những cây con nom rất khó phân biệt với các cây mận cây mơ nảy từ hạt ở các vườn nhà ngoài Bắc. Có lẽ trồng cây từ hạt sẽ chậm có cây trưởng thành nên hầu hết các cây mai anh đào nhỏ đang được trồng quanh hồ Xuân Hương ở thành phố Đà Lạt hiện giờ có vẻ đều là cành chiết từ cây lớn. Ở thành phố trên cao nguyên này có lẽ sẽ không xa lắm để trở thành hiện thực cái hy vọng một ngày kia việc đến đây ngắm mai anh đào nở sẽ trở thành nội dung các tour du lịch. Còn ở Hà Nội, đợi chờ anh đào nở trên đường Liễu Giai có vẻ còn khá xa vời. Một nhà ngoại giao người Nhật nhận xét với báo chí rằng khí hậu Hà Nội khá khắc nghiệt đối với loài cây này (hẳn ông muốn nói tới trên sáu tháng nóng bức mà loài cây này di thực đến đây sẽ phải chịu đựng, thích nghi), nhưng ông và cả chúng ta nữa, đều mong những cây anh đào này sẽ sống sẽ lớn sẽ trổ hoa trên đất cũ Thăng Long.
Tiện thể tôi có nhận xét rằng các viên chức ngoại giao Nhật dường như khá chú ý đến chủng loại cây cối quanh khu họ ở. Dãy anh đào vừa nói trên nhìn thẳng vào cổng phía tây toà sứ quán; dọc phía đông khuôn viên toà sứ quán, bên trong tường rào được trồng các dãy cây ngọc lan, bên ngoài tường, dọc vỉa hè các phố Liễu Giai, Vạn Phúc được trồng khá nhiều cây hoàng lan; phía hè đường Vạn Phúc bên kia sứ quán, tình cờ chăng, có một gốc phượng vĩ hoa tím có lẽ là độc nhất ở Hà Nội, cùng một thứ phượng tím mà Nguyễn Quang Sáng đã đưa vào phim truyện, thứ phượng tím mà việc nhân giống thành công để trồng thành từng dãy trên phố Đà Lạt được báo chí đưa tin như một sự kiện văn hoá.
Chợt nhớ chuyện cuối thu năm nọ một thành phố nào đó dọc miền Trung phải cho chặt bớt các cây hoa sữa ở những đoạn mật đọ cây quá dày, mùi hoa nồng khiến người trong vùng không chịu nổi, tôi lại phải bừng tỉnh để xin nhắn các bạn Đà Lạt chớ có trồng phượng tím với mật độ quá dày quá thuần chủng trong một không gian hẹp. Vì sao ư? chả là vài bạn người Việt ở quanh vùng Los Angeles kể rằng ở một số đoạn đường trồng dày phượng tím, mùa hoa nở nhiều thì mùi hoa cũng gây phản cảm nặng cho khứu giác con người.
Tôi đang lan man về điều tôi cho rằng người xứ mình thích hoa cảnh xứ lạ. Sự ưa thích thiên lệch ấy có thể có lúc phải trả giá. Có một chuyện đã xảy ra với một người kinh doanh hoa cảnh cách nay vài ba năm, chừng như là vào đầu năm 2001, năm được coi là đích thực mở đầu thiên niên kỷ mới, thiên niên kỷ thứ ba tính theo lịch của đạo Thiên Chúa; anh bạn trẻ thuộc loại “lãng mạn hoa kiểng” ấy dám mua từ Vân Nam về Hà Nội dăm gốc mẫu đơn tiên. Người Trung Quốc coi loài này là chúa của các loài hoa. Nhiều thế hệ hoạ sĩ Tàu từng thả ngọn bút vẽ mê đắm của họ theo vẻ đẹp trùng phức rực rỡ của giống hoa này. Thưở nhỏ, xem những phiên bản tranh Tàu, tôi cứ nghĩ đấy là họ vẽ theo hoa thược dược (một loại cây thân rau dễ trồng) rồi mơ mộng phóng đại tầm mức các tầng cánh của bông hoa đó lên. Những năm 1980, một lần trong phòng khách một khách sạn dưới chân núi Alatau (Kazakhstan) có đỉnh tuyết phủ giữa mùa hè, tôi lần đầu tiên trong đời nhìn thấy một cành thân gỗ với một bông hoa lớn có lẽ của loài hoa ấy mà người ta cho tôi biết dưới cái tên tiếng Nga là “pion”. Mãi đến gần giao thừa hai thiên niên kỷ, được ngắm cây thật nụ thật hoa thật, tôi mới tin cái đối tượng mô tả của các hoạ sĩ Trung Hoa kia là loài có thật. Đây cố nhiên không phải thứ mẫu đơn vốn có ở xứ ta, loại mọc hoang được gọi là bông trang ( thơ Ý Nhi: …bông trang dại vào mùa chín đỏ…), loại trồng vườn gọi là mẫu đơn với hai màu thường gặp là đỏ hoặc trắng, gần đây người ta gây được (hoặc nhập về) giống mới hoa lớn đỏ thắm hơn lá xanh đậm hơn. Đây là một loài mẫu đơn khác, tiếng Anh gọi là peony, tiếng Pháp gọi là pivoine; thân gỗ, lá chia ba thuỳ gần giống lá thược dược, nụ hoa lúc sắp nở cũng hơi giống nụ thược dược, cánh hoa nở ra cũng tương tự cánh hoa thược dược nhưng không khuôn phép như loài hoa nở ra trên cây thân rau nọ. Tôi ngờ rằng cành mẫu đơn trong truyền thuyết mà chàng Từ Thức đền giúp nàng tiên giả dạng người trần đi hội chùa Tiên Du vô tình làm gãy, − là mượn uy danh “chúa hoa” của loài cây lạ kia chứ không phải hoa mẫu đơn thường gặp nơi các chùa hoặc vườn nhà xứ mình. Đó, xin nhắc lại, là hoa của một loài cây xứ lạnh, không chịu nổi môi trường từ vài chục độ trở lên. Sau Tết năm ấy tôi mới biết anh bạn nọ bị lỗ vốn khá lớn vì mấy gốc mẫu đơn tiên nọ; chúng nở rất mau tàn cũng rất mau, không kịp bán cho dù là những người chơi hoa hào phóng nhất; cây hoa cũng không sống được không gây trồng được ở đất này, tương tự giống thuỷ tiên vậy. Đành an ủi người bạn trẻ : vụ lỗ lã này âu cũng nên xem như một trả giá, một kỳ tích về …tình yêu hoa lạ!
***
Bây giờ xin trở lại nói chuyện cây lá quen thuộc xứ mình.
Chẳng rõ việc trồng cây ở đô thị đã trở thành việc làm có quản lý, ít nhiều có quy hoạch, là từ khi nào? Phải chăng là từ thời có các toà Đốc lý, tức chính quyền quản lý đô thị thuộc địa của người Pháp? Chẳng rõ những thứ cây đã thân thuộc với phố xá như phượng vĩ, khuynh diệp, sao đen…có phải là những giống nội địa? Hay chúng , giống như cau châu Phi, bao báp châu Phi…đã được địa vực hoá (localisation) vào xứ ta, với bàn tay của các nhà canh nông thực dân? Cây cối vốn dĩ vô tổ quốc, ở đâu thích nghi được là chúng tồn tại, tự biến đổi ít nhiều mà tồn tại. Cây bách tán hẳn không phải cây xứ nóng, nhưng giới kinh doanh hoa kiểng ở ta bảo rằng loại bách tán do các chủ vườn Nam Bộ trồng ươm bán ra mới là loại bách tán to đẹp.
Cho đến bây giờ, chẳng rõ giới quản lý đô thị đã hoàn toàn chủ động trong chuyện cây trồng trên phố? Kinh nghiệm cho thấy việc chọn cây trồng trên vỉa hè các loại đường, − không phải là việc dễ dàng để có thể tuỳ tiện. Cây dễ trồng, mau lớn, tán lá rậm, tưởng thích hợp với phố xá nhiều nắng nóng, nhưng xà cừ lại là đáp án gây thất vọng. Các loại đa và si thường đòi không gian lớn, − khoảng đất rộng để cắm và lan các loại rễ, không gian tầm thấp để buông cành phụ rễ chùm, không gian tầm cao để toả rộng cành lá, − cho nên không dễ để bị sắp đặt vào bất cứ đoạn vỉa hè nào. Thế mà cây trên phố, cây trong khuôn viên các dinh thự lớn lại phải là cây có thể tồn tại lâu dài, dáng vóc dễ coi. Những giống cây có thể trở thành cổ thụ như thế, đối với đô thị miền bắc như Hà Nội chẳng hạn, chỉ có thể kể đến sấu, muỗm, long não…Chẳng biết có phải vì bí vì thiếu hiểu biết hay vì liều, mươi năm gần đây người ta cho trồng trên nhiều hè đường đô thị hoá gấp gáp những giống cây vốn chỉ đáp ứng yêu cầu phủ xanh đất trống đồi trọc, loại như keo tai tượng, keo lá chàm…, chỉ sau dăm ba năm cây đã già, đáng chặt đi để trồng mới rồi.
Trong chuyện thay cây trồng trên phố Hà Nội, có ai đó từng kể cho tôi một sự việc… ngoạn mục. Chả là đoạn đường Hùng Vương từ cuối những năm 1970 được nhất loạt trồng mới loại chò nâu lấy giống từ núi Nghĩa Lĩnh, Phú Thọ. Sau dăm bảy năm, không ít cây khô chết, người ta đồ chừng loại cây ấy không thích hợp với đất này. Những tìm kiếm lặng lẽ được tiến hành. Rồi một loại cây mới cũng lặng lẽ được đưa trồng thay những cây chò nâu khô chết. Ấy là một loại cây quen thuộc ở đất Nam Bộ: cây dầu nước. Điều ngoạn mục là cây dầu nước thoạt nhìn không khác gì cây chò nâu, chỉ nhìn kỹ mới thấy vòm lá xanh hơn và rậm hơn lại toả rộng hơn tuy ít vươn cao so với chò nâu; thử cầm hai chiếc lá chò nâu và dầu nước mà so đọ thì nếu không là chuyên gia chắc không thể nhận ra sự khác biệt. Đến bây giờ, chừng như cây dầu nước đang có mặt kề cận chò nâu ngay dưới chân núi Nghĩa Lĩnh rồi!
Cùng trên đề tài chọn cây trồng trên hè phố, dọc các quốc lộ, tỉnh lộ…, tôi nhớ một lần được nghe một lý thuyết gọi là “bản địa hoá” cây trồng, theo đó, thay vì chọn trồng các giống cây từ xứ lạ theo kiểu “quốc tế hoá”, người ta khuyên nên chọn nhân giống và trồng ở vùng mình những loài cây từng có lâu đời tại mỗi địa phương. Chẳng biết thuyết này đúng tới đâu, nhưng nó xui tôi nhớ đến những loài chắc hẳn là vốn có từ lâu ở xứ mình. Cây ruối thuộc giống ruối đã có thể trở thành cổ thụ như ở Đường Lâm, Sơn Tây, không hiếm gì trong vùng Hà Nội; có ai tính trồng ruối làm cây trên hè đường? Cây thị với khả năng gợi liên tưởng tới tích Tấm Cám, liệu có thể cho nó đứng trên hè phố như từng đứng trong vườn trong làng? Cây hoa gạo hẳn là rất thích hợp để trồng ven các quốc lộ, tỉnh lộ, trồng cả cho những hè đường trên các phố rộng nữa, nhưng mấy chục năm nay, các sở nông lâm chưa bao giờ nhân giống cấp giống cây này. Tiết cuối xuân đi ra ngoại ô, thấy hoa gạo ngày một thưa vắng, ta bỗng vừa nhớ vừa lo. Lại chợt nhận ra rằng cây gạo bên Hồ Gươm có mặt trong những tấm bưu ảnh chụp từ cuối thế kỷ XIX nay vẫn còn đó nhưng già cỗi lắm rồi, thế mà quanh hồ chưa thấy có cây gạo nào khác được trồng thêm; nỗi lo đâu phải vô cớ? Có một lần ở một tiệm trà trên phố Bolsa (trong quận Cam, bang California, Mỹ), gặp một sư thầy người Việt vừa từ Paris qua Mỹ; vị tu hành trẻ này hỏi tôi: hoa gạo là hoa thế nào, cách trồng nó ra sao, có thể gởi hạt sang đây để trồng trên đất Cali này chăng? Chẳng ai dám bảo cây gạo hoa gạo (chữ Pháp kapokier, chữ Hán mộc miên) là của riêng đất mình, nhưng những gợi nhớ về các cuộc hành hương bất chợt gặp hoa gạo giữa đường, bóng cây hoa gạo cao cao đầu làng thấp thoáng trong các hồi ức quê hương…; thế thì việc người gốc Việt ở ngoài nước chọn hoa gạo để tạo một dấu hiệu quê hương cho vơi nỗi sầu xứ giữa nơi đất khách quê người, sự lựa chọn ấy hẳn không phải là vô lý.
Năm trước có một vài nhà báo nêu một việc mà các anh gọi là nạn “tàn sát lộc vừng”. Sự việc được các anh nêu từ thực tế miền Trung, nhưng ngay giữa Hà Nội ta cũng có thể thấy dấu hiệu của sự triệt phá và thu gom giống cây này, khi mà hằng ngày các chợ cây cảnh các xe đạp thồ bán tràn ngập các cỡ cây lộc vừng từ lớn tới nhỏ, khi mà các loại nhà hàng ăn uống ở khắp nơi trên đất Bắc hễ có khuôn viên rộng là trở thành nơi trưng ra chen chúc những “cổ thụ lộc vừng” với những thân gốc lớn khác thường, với hẩu hết các cành lớn bị cắt xén, cành nhỏ bị gọt tỉa…nếu có đẹp cũng là một cái đẹp tội nghiệp…Lộc vừng là giống chỉ có trong tự nhiên, chưa có sở nông lâm nào nhân giống cấp giống cây này; tất cả những cây lộc vừng hiện trở thành hàng hoá kia đều là bị khai thác từ mọi sườn đồi bờ suối các miền. Chiều theo thị hiếu thị dân, hầu hết các cây lộc vừng khai thác được đều bị ép xác lại thành “bonsai”, thu gọn vào chậu cảnh. Trong khi ấy các công viên có hồ ở Hà Nội chẳng hạn, lại rất hiếm chỗ có cây lộc vừng! Người ta thi nhau chụp ảnh, làm thơ về gốc lộc vừng cổ thụ bên Hồ Gươm, Cái gốc lộc vừng ba thân chĩa ra Hồ Gươm, sau khi Nguyễn Tuân mô tả mùa hoa “xuân thu nhị kỳ” của nó, phát hiện nó cho công chúng văn học trong một bài bút ký thời chiến; từ đó tới nay có biết bao người chụp ảnh làm thơ “ăn theo” nhà tuỳ bút họ Nguyễn, có điều họ đều quên nói với mọi người cái thực tế rằng đấy hầu như là cây lộc vừng độc nhất ở các công viên Hà Nội, rằng cây đó đã quá già. Trong khi lộc vừng ngày càng đầy chật trong mỗi tư gia thì ở các công viên dọc các đường phố vẫn khó thấy bóng lộc vừng. Đây là thứ cây của bờ suối đất phèn, cây của những bờ ruộng ngập nước đồng chiêm miền Bắc.
… “Con bói cá đậu cành lộc vừng rình con tép mại” − trong trí tôi thoảng nhớ câu thơ ai đó viết về đồng chiêm miền Bắc.
Có lần bạn tôi khoe chậu cây lớn lộc vừng vừa mua được, tôi nửa đùa nửa thật bảo: Nếu tôi có quyền, tôi sẽ cho thu mua tất cả các cây “bonsai” lộc vừng trong thành phố, giải phóng chúng khỏi khung chậu chật chội, đem trồng ven các hồ trong thành phố; dăm năm nữa, Hà Nội sẽ có thêm nhiều điểm công cộng ngắm hoa lộc vừng!
Được tiếng là thành phố nhiều cây xanh, nhưng ở Hà Nội hiện có quá ít chỗ công cộng được thiết kế dành cho người ta đến ngắm cây ngắm hoa, quá ít loài cây loài hoa được dành để ngắm nhìn nơi công cộng. Hình như chưa có công viên nào ở Hà Nội dám làm cái việc không đến nỗi khó là trồng thành một vùng chừng vài chục cây đào theo lối tự nhiên, nghĩa là không xén tỉa, tạo thành rừng nhỏ, để mùa hoa sẽ thành nơi cho du khách thưởng lãm, chụp ảnh. Trí tưởng tượng của các kỹ sư làm việc ở các công ty công viên có vấn đề chăng, hay có điều gì khác? Khuôn viên Bảo tàng Mỹ thuật từng có dăm bảy cây đào cổ thụ như thế, nhưng nay thì đã bị chặt bỏ hết rồi. Phong lan các loại, hoặc lấy từ rừng hoặc sản xuất từ các trang trại thì luôn luôn có bán đầy các chợ, nhưng người ta thường chỉ mua về bày ở nhà riêng phòng riêng, rất hiếm công viên công thự có trồng phong lan, dù có cây lớn, dư chỗ cho các loài phong lan rừng đeo bám. Trường hợp mấy chùm phi điệp tím nhạt mỗi mùa vẫn từ mấy cành gội cao buông xuống, như ở vườn Thư viện Quốc gia, có lẽ là chuyện ngẫu nhiên.
Ở xứ ta, đô thị đang tăng dần tỉ trọng về diện tích, về dân số. Không gian đô thị không phải là không gian làng xã; thiên nhiên, cây cối, tức là phần không gian tự nhiên, sẽ bị thu hẹp đáng kể trong không gian đô thị. Phải tổ chức ra sao cái không gian bị thu hẹp ấy để con người sinh ra và lớn lên trong các đô thị vẫn còn được giao tiếp, được thụ hưởng cái thiên nhiên tự nhiên dù đã bị thu hẹp kia? Điều mà các chuyên gia xây dựng và quản lý đô thị quan tâm theo cách của họ, suy cho cùng, cũng là mối bận tâm của người viết những dòng tản mạn này, cố nhiên, theo cách của mình.
Tuần đầu tháng Giêng 2004
HƯƠNG MỘC
Xây nhà xong, tôi quay sang Đức, khoảnh đất trống trước nhà gần 200m2 giao cho con gái quy hoạch thành cái vườn nhỏ. Trước đó, nhớ mảnh vườn cũ của cha tôi trên sân thượng, các loài hoa mà ông yêu quý, tôi mua bốn cây mộc con, một cây ngâu.
Năm
tháng qua đi, đám cây trong vườn nhà lớn lên. Đám mộc bé xíu hôm nào
vươn lên, cây nào lá cũng xanh thẫm, ánh bóng lên trong nắng, hay biêng
biếc sau mưa, trấn ngự bốn góc vườn. Hồi chưa cho thuê nhà, bạn bè tới,
có em là nhà báo vào vườn hỏi: Hương gì thơm lạ thế? Tôi bảo hương mộc
đấy. Em hỏi hoa đâu? Tôi kéo người tới sát cây, chỉ những bông hoa bé
như mắt muỗi, màu trắng. Em lại hỏi: Hoa nở lâu chưa? Tôi cười: Phàm
loài hoa định hình từ khi phôi thai tới lúc cho hương như móng rồng, hay
các loài hoa tựa hương mà khoe như mộc, sói, ngâu, được các cụ gọi là
hoa đã chín hay đang chín, không dùng từ nở. Cô nhà báo sinh ra ở thành
thị dỏng tai nghe. Vậy gọi là chín! Loài mộc thân gỗ, giản dị dễ trồng,
sức sống rất mạnh, cằn khô, nóng nực hay rét mướt tới mấy cũng không bao
giờ run sợ mà chết. Mộc cho hoa sau một, hai năm tuổi, lại cho hoa bốn
mùa, cứ hết đợt này tàn, lại tới đợt khác, ngan ngát thấp thoáng trong
vườn một mùi hương.
Tháng Giêng Hai, mưa xuân. Mưa rả rích suốt đêm rồi tạnh. Buổi sớm ra vườn, vài đọt cỏ, ngọn lá còn lấp lánh những giọt mưa đêm. Trong những tia nắng vàng ươm mỏng mảnh ban mai, chợt nhận ra quanh ta một thứ hương kỳ lạ, khi thấy thơm vô cùng, song có khi lại phảng phất, như chợt đi, lại chợt tràn ngập, như người phụ nữ biết ẩn tàng cái đẹp kín đáo, làm ta ngây ngất. Ngắm cho tinh! Sau kẽ lá, những đóa hoa bé xíu, sắc trắng, ẩn kín đáo từng chùm nhỏ trong kẽ lá xanh biếc kia, e ấp, âm thầm và mạnh dạn theo nắng sớm, bừng hương dâng khắp vườn và quấn quýt bên người, làm lòng người xúc cảm như lạc cõi thanh tao. Ngồi giữa vườn, thấy thanh thản, bình an lạ trong loài hương kia, để nhiều khi những kỷ niệm đẹp tươi cũng hiện lên như sự bứt đi không dứt, những ký ức vừa mới hôm qua chầm chậm trở về, những điều làm tâm hồn con người cảm xúc, trong xa lắm và trong cả hôm qua thôi. Những khi như thế, tâm hồn như vừa được tắm gội, thanh tịnh, như vừa được rũ sạch hết bụi trần, rũ sạch muộn phiền, những buồn thương có duyên cớ và vô duyên cớ cứ tan ra, biến đi.
Cô gái cùng tôi nhẩn nha bấm những chùm hoa mộc, hai ba hạt nhỏ xíu trắng tinh kia, ướp với trà ngon. Ấm trà vừa chín, tráng chén cho thật nóng, rót trà ra. Hương mộc quyện với hương trà hừng lên, một thứ hương rất nhẹ cho cảm giác chén trà có hương vị thanh tao tới lạ thường. Cô cứ xuýt xoa khen mãi chén trà với cái thứ hương kỳ lạ có kém gì trà đắt giá cả triệu bạc ướp hương sen. Tôi bảo, ủ trà sen không khó. Mùa hạ, sen trào trạt nở, lấy gạo sen cũng chỉ thoáng ở một bông là đủ cho một ấm trà, còn trà ướp mộc quá kỳ khu, nên đa phần người ta biết tới trà sen hơn, dầu là các cụ nghệ sĩ xưa cũng chỉ thưởng trà mộc với khách tri âm.
Cô bạn gái vong niên sau chuyến ấy không theo nghiệp báo nữa. Cũng chưa khi nào viết một bài báo để nói về từ “chín” như cô hẹn. Chuyển sang ngành khác, cô ra nước ngoài và hun hút làm dâu xứ người, như loài chim di trên sóng biếc. Một hôm, nhận thư của người xưa. Thư có đoạn: Bốn năm biền biệt. Nhớ nhiều về Hà Nội. Song đố anh biết em nhớ gì nhiều nhất? Nhớ khu vườn nhà anh đấy, biết không? Cái thứ hương giản dị kín đáo mà ám ảnh, tìm khắp trời Tây mà không bao giờ thấy lại! Hoa mộc ở quê mình vẫn đang chín phải không anh?... Cô bôi đậm từ chín. Vâng- tôi thư ngay trả lời- Mộc vốn là hoa quá nhỏ bé, không phô phang rực rỡ như các loài hoa khác và mấy ai nhận ra để xúc động, chia sẻ những vẻ đẹp kín đáo âm thầm thanh bạch trong cái hương tinh tế của nó như tâm hồn con người Việt…
Tôi thi thoảng vì việc riêng, lại quay sang Đức. Hà Nội luôn trong tôi khi mang theo bao nỗi nhớ, kể cả nhớ lại khu vườn và thứ hương của loài mộc. Ngay cả khi trở về, không còn bên vườn, những đêm nhớ vườn hay nhớ người, trong mơ, hiện lên một cô gái không hề son phấn, da dẻ muôn muốt như da thịt hoa mộc. Người trong mơ bay chập chờn quanh tôi, để tôi cố vươn hai tay ra mà không sao nắm bắt được. Không sao nắm bắt như hương mộc tỏa ra vườn tôi mới sớm sớm hay sau mưa…
Hà Nội đô thị chật chội hôm nay mấy ai có vườn? Bạn có muốn thưởng thức loài hoa ấy không? Hãy ra chợ cây Hoàng Hoa Thám mua một cây mộc nhỏ và trồng trong một chậu lớn đặt trên ban công hay bên cửa sổ có nhiều ánh sáng chiếu vào. Hãy chăm sóc nó với nước tinh khiết tuần tuần và kiên trì chờ đợi. Rồi một ngày nào đó, bạn mở cửa ra, sau cơn mưa, cùng với những tia nắng vàng mong manh chợt tới, bất ngờ bạn sẽ nhận thấy có thứ hương kỳ lạ quấn quýt, quấn quýt dâng đầy chung quanh... Khi ấy nếu có người bạn ở bên bạn, người ta sẽ phải hỏi hương gì thơm thế. Bạn hãy nói rằng, mộc vừa chín đấy bạn ạ! Vâng hoa mộc đang rộ chín sau những đêm mưa.
Thụ Nguyễn
Tháng Giêng Hai, mưa xuân. Mưa rả rích suốt đêm rồi tạnh. Buổi sớm ra vườn, vài đọt cỏ, ngọn lá còn lấp lánh những giọt mưa đêm. Trong những tia nắng vàng ươm mỏng mảnh ban mai, chợt nhận ra quanh ta một thứ hương kỳ lạ, khi thấy thơm vô cùng, song có khi lại phảng phất, như chợt đi, lại chợt tràn ngập, như người phụ nữ biết ẩn tàng cái đẹp kín đáo, làm ta ngây ngất. Ngắm cho tinh! Sau kẽ lá, những đóa hoa bé xíu, sắc trắng, ẩn kín đáo từng chùm nhỏ trong kẽ lá xanh biếc kia, e ấp, âm thầm và mạnh dạn theo nắng sớm, bừng hương dâng khắp vườn và quấn quýt bên người, làm lòng người xúc cảm như lạc cõi thanh tao. Ngồi giữa vườn, thấy thanh thản, bình an lạ trong loài hương kia, để nhiều khi những kỷ niệm đẹp tươi cũng hiện lên như sự bứt đi không dứt, những ký ức vừa mới hôm qua chầm chậm trở về, những điều làm tâm hồn con người cảm xúc, trong xa lắm và trong cả hôm qua thôi. Những khi như thế, tâm hồn như vừa được tắm gội, thanh tịnh, như vừa được rũ sạch hết bụi trần, rũ sạch muộn phiền, những buồn thương có duyên cớ và vô duyên cớ cứ tan ra, biến đi.
Cô gái cùng tôi nhẩn nha bấm những chùm hoa mộc, hai ba hạt nhỏ xíu trắng tinh kia, ướp với trà ngon. Ấm trà vừa chín, tráng chén cho thật nóng, rót trà ra. Hương mộc quyện với hương trà hừng lên, một thứ hương rất nhẹ cho cảm giác chén trà có hương vị thanh tao tới lạ thường. Cô cứ xuýt xoa khen mãi chén trà với cái thứ hương kỳ lạ có kém gì trà đắt giá cả triệu bạc ướp hương sen. Tôi bảo, ủ trà sen không khó. Mùa hạ, sen trào trạt nở, lấy gạo sen cũng chỉ thoáng ở một bông là đủ cho một ấm trà, còn trà ướp mộc quá kỳ khu, nên đa phần người ta biết tới trà sen hơn, dầu là các cụ nghệ sĩ xưa cũng chỉ thưởng trà mộc với khách tri âm.
Cô bạn gái vong niên sau chuyến ấy không theo nghiệp báo nữa. Cũng chưa khi nào viết một bài báo để nói về từ “chín” như cô hẹn. Chuyển sang ngành khác, cô ra nước ngoài và hun hút làm dâu xứ người, như loài chim di trên sóng biếc. Một hôm, nhận thư của người xưa. Thư có đoạn: Bốn năm biền biệt. Nhớ nhiều về Hà Nội. Song đố anh biết em nhớ gì nhiều nhất? Nhớ khu vườn nhà anh đấy, biết không? Cái thứ hương giản dị kín đáo mà ám ảnh, tìm khắp trời Tây mà không bao giờ thấy lại! Hoa mộc ở quê mình vẫn đang chín phải không anh?... Cô bôi đậm từ chín. Vâng- tôi thư ngay trả lời- Mộc vốn là hoa quá nhỏ bé, không phô phang rực rỡ như các loài hoa khác và mấy ai nhận ra để xúc động, chia sẻ những vẻ đẹp kín đáo âm thầm thanh bạch trong cái hương tinh tế của nó như tâm hồn con người Việt…
Tôi thi thoảng vì việc riêng, lại quay sang Đức. Hà Nội luôn trong tôi khi mang theo bao nỗi nhớ, kể cả nhớ lại khu vườn và thứ hương của loài mộc. Ngay cả khi trở về, không còn bên vườn, những đêm nhớ vườn hay nhớ người, trong mơ, hiện lên một cô gái không hề son phấn, da dẻ muôn muốt như da thịt hoa mộc. Người trong mơ bay chập chờn quanh tôi, để tôi cố vươn hai tay ra mà không sao nắm bắt được. Không sao nắm bắt như hương mộc tỏa ra vườn tôi mới sớm sớm hay sau mưa…
Hà Nội đô thị chật chội hôm nay mấy ai có vườn? Bạn có muốn thưởng thức loài hoa ấy không? Hãy ra chợ cây Hoàng Hoa Thám mua một cây mộc nhỏ và trồng trong một chậu lớn đặt trên ban công hay bên cửa sổ có nhiều ánh sáng chiếu vào. Hãy chăm sóc nó với nước tinh khiết tuần tuần và kiên trì chờ đợi. Rồi một ngày nào đó, bạn mở cửa ra, sau cơn mưa, cùng với những tia nắng vàng mong manh chợt tới, bất ngờ bạn sẽ nhận thấy có thứ hương kỳ lạ quấn quýt, quấn quýt dâng đầy chung quanh... Khi ấy nếu có người bạn ở bên bạn, người ta sẽ phải hỏi hương gì thơm thế. Bạn hãy nói rằng, mộc vừa chín đấy bạn ạ! Vâng hoa mộc đang rộ chín sau những đêm mưa.
Thụ Nguyễn
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)